Bài liên quan
Trong chiến tranh thế hệ mới, hoạt động tình báo chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng, bao gồm tất cả các không gian: vũ trụ, trên không, trên bộ và trên biển. Nó còn thâm nhập vào các hệ thống phần mềm máy tính và mạng máy tính, mạng các hệ thống tổng đài vô tuyến viễn thông, các hệ thống chỉ huy quân đội và điều khiển vũ khí, mạng điện, năng lượng, mạng lưới vận tải, các phương tiện truyền thông đại chúng, các kênh hoạt động tài chính….
Hoạt động tình báo phát triển mạnh nhất tại các quốc gia sử dụng các kết quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật về công nghệ thông tin viễn thông, mang tính toàn cầu và được tăng cường sức mạnh dựa trên tích hợp các lực lượng, phương tiện hiện có, đồng thời không ngừng được triển khai và tư liệu hóa dựa trên các nguyên tắc giám sát.
Để tiến hành hoạt động tình báo, người ta sẽ sử dụng rộng rãi các lực lượng và phương tiện bố trí trên vũ trụ, trên không, trên biển và trên bộ, do đó, sẽ phải tiến hành quan sát liên tục và chi tiết tất cả các lãnh thổ trên hành tinh, quan sát khoảng không gian vũ trụ của trái đất, quan sát hiện trạng của các lực lượng tấn công và phòng thủ chiến lược của các nước, quan sát mọi di chuyển của các lực lượng quân sự và ranh giới các chiến trường. Điều đó cho thấy, chiến tranh thế hệ mới hoàn toàn có thể bắt đầu bằng các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công được xây dựng từ trước, đó là các hệ thống có khả năng thực hiện các cuộc tấn công trên không, vũ trụ, trên biển ở quy mô chiến lược bằng phương pháp phi tiếp xúc vào một quốc gia bất kỳ, tại bất cứ khu vực nào trên hành tinh mà không cần tăng cường các lực lượng và phương tiện tiên phong đến khu vực đó. Hoạt động chỉ đạo trong kiểu chiến tranh này có thể được thực hiện trực tiếp từ lãnh thổ của quốc gia đi tấn công.
Vũ khí chính xác cao và vũ khí theo nguyên lý vật lý mới sẽ thực hiện các nhiệm vụ quan trọng nhất mà các cuộc chiến tranh trước đây phải giải quyết (chủ yếu chỉ là các cụm quân lớn được chi viện bằng không quân, hạm đội, đòi hỏi phải có thông tin tình báo/trinh sát chính xác, cần thiết về từng đối tượng tác chiến phải giải quyết). Rõ ràng đang nảy sinh một yêu cầu bức thiết về các tổ hợp thông tin - tình báo tự động hóa khác nhau, bố trí tại các môi trường khác nhau. Trong các tổ hợp này có các phương tiện bảo đảm thông tin dẫn đường vô tuyến với hệ tọa độ toàn cầu, tình báo/trinh sát, chỉ huy các lực lượng và phương tiện tác chiến điện tử.
Các phương tiện tình báo/trinh sát vũ trụ trong tương lai hoàn toàn có thể sẽ trở thành nguồn lực thông tin cơ bản khi lập kế hoạch, cũng như khi tổ chức và tiến hành các hoạt động chiến tranh. Từ không gian vũ trụ, người ta sẽ sử dụng thường xuyên và rộng rãi các hoạt động tình báo/trinh sát vô tuyến kỹ thuật, rađa, ảnh, truyền hình, hồng ngoại và bức xạ…, những hoạt động này sẽ liên tục cung cấp các thông tin cần thiết theo thời gian thực. Các phương tiện vũ trụ sẽ bảo đảm thông tin dẫn đường cho tên lửa hành trình chính xác cao bố trí trên mặt đất, trên không, trên biển và sau này là trên vũ trụ, đánh vào mục tiêu cần hủy diệt. Trên những tên lửa này hoàn toàn có thể bố trí các thiết bị thu tín hiệu của hệ thống thông tin dẫn đường vũ trụ toàn cầu, cho phép tấn công chính xác cao vào mục tiêu, tại bất kỳ địa điểm nào trên trái đất.
Chẳng hạn, trong các cuộc chiến tranh Vùng Vịnh (1991, 1996) và tại Nam Tư (1999), các vệ tinh trinh sát Macross của Mỹ đã được sử dụng rộng rãi, để truyền từ không gian vũ trụ ảnh vô tuyến của các vùng chiến sự. Việc sử dụng các vệ tinh này cho phép trong bất kỳ điều kiện khí tượng nào và trong các khu vực địa lý khác nhau, có thể phát hiện các mục tiêu với độ chính xác đủ cao để tấn công.
Hiện nay, các cụm quỹ đạo của các thiết bị tình báo/trinh sát vũ trụ tương tự của các quốc gia công nghiệp phát triển đã được tăng cường đáng kể so với thập niên 2001 - 2010. Năng lực của chúng đã gia tăng về các mặt sau:
- Số lượng các mục tiêu có thể đồng thời bị phát hiện tại bất kỳ khu vực nào của hành tinh tăng lên từ 5 - 7 lần;
- Độ chính xác phát hiện tọa độ của mục tiêu và số điểm then chốt tăng khoảng 8-10 lần;
- Thời gian hoạt động tình báo/trinh sát và chuyển thông tin tới phương tiện sát thương chính xác cao giảm 5 -7 lần.
Có thể dự đoán rằng, người ta sẽ áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học - công nghệ về thông tin hiện đại nhất, trên cơ sở các hệ thống tự động hóa thiết kế, các mạng máy tính có khả năng xử lý cao. Thực tế, những thông tin tình báo/trinh sát mà các quốc gia thu thập trước hết được gửi đến các lực lượng tấn công và phòng thủ chiến lược. Người ta hy vọng sẽ liên kết vào các mạng toàn cầu những mạng máy tính cục bộ, chủ yếu của các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan hoạch định của tất cả các cơ cấu quyền lực của các quốc gia, kết hợp tất cả các ngân hàng dữ liệu hiện có liên quan đến khả năng phòng thủ của đất nước.
Tên lửa hành trình và các loại tên lửa chính xác cao khác hiện có và đang được phát triển tại các quốc gia hàng đầu thế giới, mang đầu đạn thông thường, được bố trí trên mặt đất, trên vũ trụ, trên không và trên biển, rất có thể sẽ chỉ được sử dụng trong điều kiện giành được ưu thế về thông tin. Để đạt được điều này, phải cần đến các phương tiện tình báo/trinh sát, tin học và thông tin liên lạc có khả năng nhanh chóng tiếp nhận được thông tin tình báo/trinh sát đầy đủ, chính xác, kịp thời và bảo mật tới mức cao nhất. Điều này cho phép phản ứng một cách đúng đắn trong bất kỳ cuộc xung đột quân sự nào, tại bất kỳ khu vực nào trên thế giới, để nhanh chóng nắm bắt tình hình và đưa ra những quyết định cần thiết.
Để thực hiện điều này, rất có thể trong giai đoạn 2020 - 2030, người ta sẽ phát triển các hệ thống chỉ huy, điều khiển, tình báo, trinh sát và thông tin liên lạc quân sự toàn cầu hoàn toàn khác với các hệ thống hiện có. Trong giai đoạn này ,những quốc gia phát triển nhất có thể sẽ tạo được khả năng truyền tin vũ trụ cho các mạng thông tin, bao quát trên thực tế tất cả các lĩnh vực đấu tranh vũ trang trên toàn bộ trái đất. Và thông tin tình báo sẽ có kênh riêng, được truyền đạt ở chế độ tự động hóa trong khoảng thời gian ngắn tối thiểu tới các cơ quan chỉ huy và điều khiển có liên quan ở tất cả các cấp chỉ huy. Đồng thời, sẽ tạo ra được các hệ thống cản trở đối phương tiếp nhận thông tin để điều khiển các hệ thống và vũ khí chiến đấu của họ.
Hoạt động chỉ huy và điều khiển tất cả các hệ thống chiến đấu, lực lượng và phương tiện tình báo/trinh sát sẽ được thực hiện từ các sở chỉ huy đặt trong vũ trụ và trên không, hoặc các sở chỉ huy có bảo vệ trên mặt đất. Theo dự báo, số lượng máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm không sử dụng rađa sẽ tăng lên đáng kể. Hoạt động trao đổi thông tin rất có thể sẽ được thực hiện giữa tất cả các đầu mối và các cấp chỉ huy, nhờ có các hệ thống tự động hóa được bố trí trên các phương tiện trên không trung và vũ trụ.
Trong chiến tranh phi tiếp xúc, người ta sẽ sử dụng rộng rãi các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công, trên cơ sở các hệ thống thông tin - tình báo vũ trụ có và không có người lái, cũng như các phương tiện mang phóng và các phương tiện sát thương chính xác cao bố trí trên mặt đất, trên biển, trên không và vũ trụ. Chúng sẽ có khả năng phát hiện và tấn công hiệu quả vào các mục tiêu quân sự và kinh tế cố định có phát ra sóng vô tuyến hoặc hồng ngoại, các thành phần trên mặt đất của các phương tiện phòng thủ trên không, vũ trụ, trên biển, cũng như các nguồn phát sóng rađa trên toàn bộ lãnh thổ đối phương. Điều đó làm thay đổi cơ bản nội dung và đặc điểm của chiến tranh.
Trong loại hình chiến tranh phi tiếp xúc như vậy, sẽ xảy ra sự đụng độ giữa các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công và trinh sát phòng thủ. Năng lực của các hệ thống này được đặc trưng không phải bằng ưu thế về lượng - chất của một bên, mà bằng các yếu tố về cơ cấu, tổ chức, bằng sự thống nhất và hiệu quả của hoạt động chỉ huy, bằng chất lượng hoạt động của các hệ thống tình báo/trinh sát, thông tin liên lạc, thông tin dẫn đường và các khâu bảo đảm tác chiến toàn diện khác.
Cần nhấn mạnh rằng, sau năm 2020 các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công, với các phương tiện mang bố trí trên vũ trụ có thể được bí mật chế tạo từ trước như là các hệ thống lưỡng dụng. Các hệ thống này có thể sơ bộ hoặc ở thời điểm thích hợp nhằm vào các mục tiêu dân sự và quân sự cố định, quan trọng nhất của đối phương tại bất kỳ nước nào trên thế giới.
Theo dự đoán, các vệ tinh tình báo/trinh sát sẽ có tính năng chiến thuật, kỹ thuật rất cao. Có thể người ta sẽ đưa vào trang bị các thiết bị trinh sát rađa đặt trên vũ trụ mới nhất, có khả năng chụp ảnh địa hình với độ phân giải cao vào ban đêm và trong điều kiện mây dày đặc. Năng lực của các hệ thống thiết bị trên vệ tinh trinh sát quang học có thể sẽ được nâng cao đáng kể. Chúng có thể đạt độ phân giải 10-15 cm, bảo đảm quan sát liên tục, chi tiết toàn bộ bề mặt trái đất và tất cả các mục tiêu kinh tế của các quốc gia. Thông tin của các phương tiện tình báo/trinh sát vũ trụ sẽ được truyền qua các vệ tinh thông tin liên lạc chuyển tiếp tới các trung tâm chỉ huy trên mặt đất. Từ đó, ảnh và dữ liệu tình báo/trinh sát sẽ được gửi trực tiếp tới các sở chỉ huy của các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công, cũng như các lực lượng và phương tiện bố trí trên mặt đất, trên không và trên biển, trở thành cơ sở để lập kế hoạch cho các cuộc tấn công chính xác cao trong các chiến dịch tấn công chiến lược không trung - vũ trụ - biển.
Không loại trừ, tại một số nước có nền kinh tế phát triển, người ta có thể đưa vào trang bị các hệ thống cảnh báo tên lửa tấn công mới đặt trên vũ trụ, có khả năng phát hiện không chỉ việc phóng tên lửa đường đạn xuyên lục địa chính xác cao (bố trí trên mặt đất và trên biển), mà cả các cụm tên lửa đang bay trong các giai đoạn giữa và cuối quỹ đạo. Chính những vệ tinh này rất có thể sẽ nằm trên các quỹ đạo tĩnh (quỹ đạo địa đồng bộ) và trở thành thành phần chủ yếu của các hệ thống phòng thủ chống tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình của quốc gia.
Có thể dự báo rằng, các phương tiện tình báo/trinh sát mục tiêu mặt đất từ vũ trụ cũng đang phát triển mạnh mẽ, chúng sẽ có nhiệm vụ hoàn toàn mới là tìm kiếm, phát hiện, nhận dạng và quan trắc những tham số cần thiết và làm rõ những địa điểm chủ yếu của các mục tiêu kinh tế, cơ sở hạ tầng cũng như các mục tiêu quân sự cố định của đối phương – những nơi phải sát thương bằng các tên lửa hành trình hoặc hoặc tên lửa xuyên lục địa chính xác cao mang đầu đạn thông thường. Để thực hiện điều đó, người ta hoàn toàn có thể sử dụng các phương tiện và hệ thống tình báo/trinh sát nằm trong hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công tương ứng bố trí trên vũ trụ, trên biển và trên không. Từ đó sẽ thực hiện hoạt động chỉ huy và điều khiển bằng cách tập trung các nỗ lực tấn công chính xác cao vào các vùng kinh tế, ngành công nghiệp và căn cứ quân sự quan trọng nhất của đối phương.
Thực tế cho tới nay, luật pháp về vũ trụ quốc tế vẫn chưa có một quy phạm mang tính công ước nào xác lập ranh giới giữa không trung và không gian vũ trụ (nằm ở độ cao cách mặt đất khoảng 60-100 km). Khoảng không gian vũ trụ gần trái đất không chỉ vẫn giữ nguyên giá trị quân sự to lớn, với tư cách một môi trường bảo đảm cho hoạt động chiến đấu, mà rất có thể còn trở thành một chiến trường chính - nơi diễn ra các cuộc giành giật khốc liệt và là nơi sử dụng các vũ khí phi hạt nhân, tấn công vào bất kỳ đối tượng và mục tiêu nào nằm trên hành tinh. Bởi vậy, việc kiểm soát vùng vũ trụ gần trái đất và vùng vũ trụ liên hành tinh được các quốc gia đặc biệt quan tâm.
Như vậy, các quốc gia phát triển nhất đang sử dụng các biện pháp cần thiết để xây dựng trên thực tế các lực lượng vũ trang và vũ khí trang bị mới, rất có thể trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ mới, người ta sẽ phải xây dựng các hệ thống và phương tiện tình báo/trinh sát mới, nhờ đó sẵn sàng hiện thực hóa việc sử dụng công nghệ để tiến hành chiến tranh phi tiếp xúc.
Để tiến hành hoạt động tình báo, người ta sẽ sử dụng rộng rãi các lực lượng và phương tiện bố trí trên vũ trụ, trên không, trên biển và trên bộ, do đó, sẽ phải tiến hành quan sát liên tục và chi tiết tất cả các lãnh thổ trên hành tinh, quan sát khoảng không gian vũ trụ của trái đất, quan sát hiện trạng của các lực lượng tấn công và phòng thủ chiến lược của các nước, quan sát mọi di chuyển của các lực lượng quân sự và ranh giới các chiến trường. Điều đó cho thấy, chiến tranh thế hệ mới hoàn toàn có thể bắt đầu bằng các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công được xây dựng từ trước, đó là các hệ thống có khả năng thực hiện các cuộc tấn công trên không, vũ trụ, trên biển ở quy mô chiến lược bằng phương pháp phi tiếp xúc vào một quốc gia bất kỳ, tại bất cứ khu vực nào trên hành tinh mà không cần tăng cường các lực lượng và phương tiện tiên phong đến khu vực đó. Hoạt động chỉ đạo trong kiểu chiến tranh này có thể được thực hiện trực tiếp từ lãnh thổ của quốc gia đi tấn công.
Vũ khí chính xác cao và vũ khí theo nguyên lý vật lý mới sẽ thực hiện các nhiệm vụ quan trọng nhất mà các cuộc chiến tranh trước đây phải giải quyết (chủ yếu chỉ là các cụm quân lớn được chi viện bằng không quân, hạm đội, đòi hỏi phải có thông tin tình báo/trinh sát chính xác, cần thiết về từng đối tượng tác chiến phải giải quyết). Rõ ràng đang nảy sinh một yêu cầu bức thiết về các tổ hợp thông tin - tình báo tự động hóa khác nhau, bố trí tại các môi trường khác nhau. Trong các tổ hợp này có các phương tiện bảo đảm thông tin dẫn đường vô tuyến với hệ tọa độ toàn cầu, tình báo/trinh sát, chỉ huy các lực lượng và phương tiện tác chiến điện tử.
Các phương tiện tình báo/trinh sát vũ trụ trong tương lai hoàn toàn có thể sẽ trở thành nguồn lực thông tin cơ bản khi lập kế hoạch, cũng như khi tổ chức và tiến hành các hoạt động chiến tranh. Từ không gian vũ trụ, người ta sẽ sử dụng thường xuyên và rộng rãi các hoạt động tình báo/trinh sát vô tuyến kỹ thuật, rađa, ảnh, truyền hình, hồng ngoại và bức xạ…, những hoạt động này sẽ liên tục cung cấp các thông tin cần thiết theo thời gian thực. Các phương tiện vũ trụ sẽ bảo đảm thông tin dẫn đường cho tên lửa hành trình chính xác cao bố trí trên mặt đất, trên không, trên biển và sau này là trên vũ trụ, đánh vào mục tiêu cần hủy diệt. Trên những tên lửa này hoàn toàn có thể bố trí các thiết bị thu tín hiệu của hệ thống thông tin dẫn đường vũ trụ toàn cầu, cho phép tấn công chính xác cao vào mục tiêu, tại bất kỳ địa điểm nào trên trái đất.
Chẳng hạn, trong các cuộc chiến tranh Vùng Vịnh (1991, 1996) và tại Nam Tư (1999), các vệ tinh trinh sát Macross của Mỹ đã được sử dụng rộng rãi, để truyền từ không gian vũ trụ ảnh vô tuyến của các vùng chiến sự. Việc sử dụng các vệ tinh này cho phép trong bất kỳ điều kiện khí tượng nào và trong các khu vực địa lý khác nhau, có thể phát hiện các mục tiêu với độ chính xác đủ cao để tấn công.
Hiện nay, các cụm quỹ đạo của các thiết bị tình báo/trinh sát vũ trụ tương tự của các quốc gia công nghiệp phát triển đã được tăng cường đáng kể so với thập niên 2001 - 2010. Năng lực của chúng đã gia tăng về các mặt sau:
- Số lượng các mục tiêu có thể đồng thời bị phát hiện tại bất kỳ khu vực nào của hành tinh tăng lên từ 5 - 7 lần;
- Độ chính xác phát hiện tọa độ của mục tiêu và số điểm then chốt tăng khoảng 8-10 lần;
- Thời gian hoạt động tình báo/trinh sát và chuyển thông tin tới phương tiện sát thương chính xác cao giảm 5 -7 lần.
Có thể dự đoán rằng, người ta sẽ áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học - công nghệ về thông tin hiện đại nhất, trên cơ sở các hệ thống tự động hóa thiết kế, các mạng máy tính có khả năng xử lý cao. Thực tế, những thông tin tình báo/trinh sát mà các quốc gia thu thập trước hết được gửi đến các lực lượng tấn công và phòng thủ chiến lược. Người ta hy vọng sẽ liên kết vào các mạng toàn cầu những mạng máy tính cục bộ, chủ yếu của các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan hoạch định của tất cả các cơ cấu quyền lực của các quốc gia, kết hợp tất cả các ngân hàng dữ liệu hiện có liên quan đến khả năng phòng thủ của đất nước.
Tên lửa hành trình và các loại tên lửa chính xác cao khác hiện có và đang được phát triển tại các quốc gia hàng đầu thế giới, mang đầu đạn thông thường, được bố trí trên mặt đất, trên vũ trụ, trên không và trên biển, rất có thể sẽ chỉ được sử dụng trong điều kiện giành được ưu thế về thông tin. Để đạt được điều này, phải cần đến các phương tiện tình báo/trinh sát, tin học và thông tin liên lạc có khả năng nhanh chóng tiếp nhận được thông tin tình báo/trinh sát đầy đủ, chính xác, kịp thời và bảo mật tới mức cao nhất. Điều này cho phép phản ứng một cách đúng đắn trong bất kỳ cuộc xung đột quân sự nào, tại bất kỳ khu vực nào trên thế giới, để nhanh chóng nắm bắt tình hình và đưa ra những quyết định cần thiết.
Để thực hiện điều này, rất có thể trong giai đoạn 2020 - 2030, người ta sẽ phát triển các hệ thống chỉ huy, điều khiển, tình báo, trinh sát và thông tin liên lạc quân sự toàn cầu hoàn toàn khác với các hệ thống hiện có. Trong giai đoạn này ,những quốc gia phát triển nhất có thể sẽ tạo được khả năng truyền tin vũ trụ cho các mạng thông tin, bao quát trên thực tế tất cả các lĩnh vực đấu tranh vũ trang trên toàn bộ trái đất. Và thông tin tình báo sẽ có kênh riêng, được truyền đạt ở chế độ tự động hóa trong khoảng thời gian ngắn tối thiểu tới các cơ quan chỉ huy và điều khiển có liên quan ở tất cả các cấp chỉ huy. Đồng thời, sẽ tạo ra được các hệ thống cản trở đối phương tiếp nhận thông tin để điều khiển các hệ thống và vũ khí chiến đấu của họ.
Hoạt động chỉ huy và điều khiển tất cả các hệ thống chiến đấu, lực lượng và phương tiện tình báo/trinh sát sẽ được thực hiện từ các sở chỉ huy đặt trong vũ trụ và trên không, hoặc các sở chỉ huy có bảo vệ trên mặt đất. Theo dự báo, số lượng máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm không sử dụng rađa sẽ tăng lên đáng kể. Hoạt động trao đổi thông tin rất có thể sẽ được thực hiện giữa tất cả các đầu mối và các cấp chỉ huy, nhờ có các hệ thống tự động hóa được bố trí trên các phương tiện trên không trung và vũ trụ.
Trong chiến tranh phi tiếp xúc, người ta sẽ sử dụng rộng rãi các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công, trên cơ sở các hệ thống thông tin - tình báo vũ trụ có và không có người lái, cũng như các phương tiện mang phóng và các phương tiện sát thương chính xác cao bố trí trên mặt đất, trên biển, trên không và vũ trụ. Chúng sẽ có khả năng phát hiện và tấn công hiệu quả vào các mục tiêu quân sự và kinh tế cố định có phát ra sóng vô tuyến hoặc hồng ngoại, các thành phần trên mặt đất của các phương tiện phòng thủ trên không, vũ trụ, trên biển, cũng như các nguồn phát sóng rađa trên toàn bộ lãnh thổ đối phương. Điều đó làm thay đổi cơ bản nội dung và đặc điểm của chiến tranh.
Trong loại hình chiến tranh phi tiếp xúc như vậy, sẽ xảy ra sự đụng độ giữa các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công và trinh sát phòng thủ. Năng lực của các hệ thống này được đặc trưng không phải bằng ưu thế về lượng - chất của một bên, mà bằng các yếu tố về cơ cấu, tổ chức, bằng sự thống nhất và hiệu quả của hoạt động chỉ huy, bằng chất lượng hoạt động của các hệ thống tình báo/trinh sát, thông tin liên lạc, thông tin dẫn đường và các khâu bảo đảm tác chiến toàn diện khác.
Cần nhấn mạnh rằng, sau năm 2020 các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công, với các phương tiện mang bố trí trên vũ trụ có thể được bí mật chế tạo từ trước như là các hệ thống lưỡng dụng. Các hệ thống này có thể sơ bộ hoặc ở thời điểm thích hợp nhằm vào các mục tiêu dân sự và quân sự cố định, quan trọng nhất của đối phương tại bất kỳ nước nào trên thế giới.
Theo dự đoán, các vệ tinh tình báo/trinh sát sẽ có tính năng chiến thuật, kỹ thuật rất cao. Có thể người ta sẽ đưa vào trang bị các thiết bị trinh sát rađa đặt trên vũ trụ mới nhất, có khả năng chụp ảnh địa hình với độ phân giải cao vào ban đêm và trong điều kiện mây dày đặc. Năng lực của các hệ thống thiết bị trên vệ tinh trinh sát quang học có thể sẽ được nâng cao đáng kể. Chúng có thể đạt độ phân giải 10-15 cm, bảo đảm quan sát liên tục, chi tiết toàn bộ bề mặt trái đất và tất cả các mục tiêu kinh tế của các quốc gia. Thông tin của các phương tiện tình báo/trinh sát vũ trụ sẽ được truyền qua các vệ tinh thông tin liên lạc chuyển tiếp tới các trung tâm chỉ huy trên mặt đất. Từ đó, ảnh và dữ liệu tình báo/trinh sát sẽ được gửi trực tiếp tới các sở chỉ huy của các hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công, cũng như các lực lượng và phương tiện bố trí trên mặt đất, trên không và trên biển, trở thành cơ sở để lập kế hoạch cho các cuộc tấn công chính xác cao trong các chiến dịch tấn công chiến lược không trung - vũ trụ - biển.
Không loại trừ, tại một số nước có nền kinh tế phát triển, người ta có thể đưa vào trang bị các hệ thống cảnh báo tên lửa tấn công mới đặt trên vũ trụ, có khả năng phát hiện không chỉ việc phóng tên lửa đường đạn xuyên lục địa chính xác cao (bố trí trên mặt đất và trên biển), mà cả các cụm tên lửa đang bay trong các giai đoạn giữa và cuối quỹ đạo. Chính những vệ tinh này rất có thể sẽ nằm trên các quỹ đạo tĩnh (quỹ đạo địa đồng bộ) và trở thành thành phần chủ yếu của các hệ thống phòng thủ chống tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình của quốc gia.
Có thể dự báo rằng, các phương tiện tình báo/trinh sát mục tiêu mặt đất từ vũ trụ cũng đang phát triển mạnh mẽ, chúng sẽ có nhiệm vụ hoàn toàn mới là tìm kiếm, phát hiện, nhận dạng và quan trắc những tham số cần thiết và làm rõ những địa điểm chủ yếu của các mục tiêu kinh tế, cơ sở hạ tầng cũng như các mục tiêu quân sự cố định của đối phương – những nơi phải sát thương bằng các tên lửa hành trình hoặc hoặc tên lửa xuyên lục địa chính xác cao mang đầu đạn thông thường. Để thực hiện điều đó, người ta hoàn toàn có thể sử dụng các phương tiện và hệ thống tình báo/trinh sát nằm trong hệ thống chiến đấu trinh sát - tấn công tương ứng bố trí trên vũ trụ, trên biển và trên không. Từ đó sẽ thực hiện hoạt động chỉ huy và điều khiển bằng cách tập trung các nỗ lực tấn công chính xác cao vào các vùng kinh tế, ngành công nghiệp và căn cứ quân sự quan trọng nhất của đối phương.
Thực tế cho tới nay, luật pháp về vũ trụ quốc tế vẫn chưa có một quy phạm mang tính công ước nào xác lập ranh giới giữa không trung và không gian vũ trụ (nằm ở độ cao cách mặt đất khoảng 60-100 km). Khoảng không gian vũ trụ gần trái đất không chỉ vẫn giữ nguyên giá trị quân sự to lớn, với tư cách một môi trường bảo đảm cho hoạt động chiến đấu, mà rất có thể còn trở thành một chiến trường chính - nơi diễn ra các cuộc giành giật khốc liệt và là nơi sử dụng các vũ khí phi hạt nhân, tấn công vào bất kỳ đối tượng và mục tiêu nào nằm trên hành tinh. Bởi vậy, việc kiểm soát vùng vũ trụ gần trái đất và vùng vũ trụ liên hành tinh được các quốc gia đặc biệt quan tâm.
Như vậy, các quốc gia phát triển nhất đang sử dụng các biện pháp cần thiết để xây dựng trên thực tế các lực lượng vũ trang và vũ khí trang bị mới, rất có thể trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ mới, người ta sẽ phải xây dựng các hệ thống và phương tiện tình báo/trinh sát mới, nhờ đó sẵn sàng hiện thực hóa việc sử dụng công nghệ để tiến hành chiến tranh phi tiếp xúc.
Trịnh Xuân Tiến lược dịch từ tài liệu của Nga
Post a Comment